Cặp bò thịt thượng hạng số 1 tại Việt Nam

14/11/2022

Báo Nông nghiệp Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì giới thiệu tới bà con nông dân hai giống bò thịt Waygu - Kobe và Senepol có năng suất và chất lượng thượng hạng tốp đầu tại Việt Nam hiện nay.Báo Nông nghiệp Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì giới thiệu tới bà con nông dân hai giống bò thịt Waygu - Kobe và Senepol có năng suất và chất lượng thượng hạng tốp đầu tại Việt Nam hiện nay.


 

Thực phẩm có nguồn gốc từ động vật là nguồn khó có thể thay thế được bằng các nguồn khác, đặc biệt là những dưỡng chất có tính quyết định đến sự bền vững của thành mạch, phát triển tế bào thần kinh, nơ ron cảm hứng và sự tươi trẻ của tế bào ngoại biên.

Thịt bò Wagyu chính là một trong những loại thực phẩm giàu bậc nhất các yếu tố dinh dưỡng đó nên đã được thế giới đã phong tặng “WAGYU- KING OF THE BEEF”, tức là "Vua của các loại thịt bò".

1. Wagyu là gì?

Chữ Nhật (和牛) được phiên âm là Wagyu/Hoa ngưu là tên gọi chung của các giống bò Nhật Bản. Kobe là một thành phố của Nhật Bản và là thủ phủ của tỉnh Hyōgo. Kobe cũng được xem như Champai ở Pháp và Parma ở Ý.

Tất cả bò Wagyu nuôi ở đảo Kobe nằm trong "Hiệp hội bò Kobe Nhật" được gọi là bò Kobe còn bò Wagyu không nằm trong hiệp hội thì gọi là bò Wagyu (bò đen Nhật Bản), như vậy không phải tất cả bò Wagyu đều là bò Kobe.

Ở các nước như Úc và Mỹ, bò đen của Nhật (Wagyu), nuôi theo cách của Nhật Bản vẫn được gọi là Wagyu nhưng kèm thêm tên nước đó như Wagyu Mỹ, Wagyu Úc... Ở Nhật, bò Wagyu để được gọi là bò Kobe bắt buộc bò phải được nuôi tại đảo Kobe hoặc nằm trong Hiệp hội bò Kobe (hoặc nuôi được hiệp hội Cobe chứng nhận và gắn liền với địa danh nơi đó như: Kobe-Mỹ). 

Wa trong tiếng Nhật có nghĩa là phong cách Nhật Bản. Còn Gyu trong tiếng Nhật ám chỉ con bò. Vậy nên bò Wagyu Nhật Bản có nghĩa bò phong cách Nhật Bản.

Bò Wagyu, một loại “thịt bò siêu chất lượng” được biết đến với vẻ ngoài của thớ thịt giống như đá cẩm thạch bởi những vân mỡ và vân thịt xen kẽ với tỷ lệ tương đồng giúp cho thịt khi chế biến không bị khô mà luôn mềm mại, vị thơm ngon.

Nhiều thực khách sau khi trải nghiệm món thịt bò Wagyu đã ca ngợi miếng thịt mềm đến mức họ cảm thấy nó như tan dần trong miệng và có hương vị và chất lượng vượt trội, thịt đắt nhất thế giới.

Nước xương bò Wagyu có vị đặc biệt, khác thường so với bất kỳ loại xương bò nào bởi độ ngọt thanh khiết, mùi thơm dịu, không sỉn, không nặng mùi như xương bò bình thường khác.

2. Lí do gì khiến thịt bò Wagyu - Kobe tốt đến vậy?

Quy trình nuôi bò Kobe rất khắt khe: sử dụng đa dạng thức ăn (50-60 loại) trong thời kỳ vỗ béo như: lúa non, cỏ tươi xanh, cỏ ủ chua, rơm, sản phẩm phụ từ các nhà máy đóng hộp, đậu nành, các loại khoáng đa vi lượng..., nước uống tinh khiết, tắm nước ấm, massage và được bổ sung các loại có cồn như bia hơi, rượu Sakê, rượu vang và hàng ngày nghe nhạc giao hưởng của Mozart, Beethoven để chúng tăng cân và tích mỡ .

Mỡ là loại mỡ béo không no: Docosa hexaenoic acid viết tắt là DHA là nhóm acid béo không no thuộc nhóm omega-3 (acid có 22 carbon, 6 nối đôi, nối đôi đầu tiên ở vị trí carbon số 3), DHA rất cần thiết cho hệ thần kinh, não bộ, thị giác và hệ xương của cơ thể người.

Đặc biệt, đối với phụ nữ mang thai, DHA trong thai kỳ có vai trò vô cùng quan trọng đối với não bộ; Omega 6 là axit béo không bão hòa (các liên kết đôi) bao gồm 4 dạng là: Linoleic acid (LA); Gamma linolenic acid (GLA); Dihomo-gamma linolenic acid (DGLA) và Arachidonic acid (AA);

Omega-6 duy trì cho xương chắc khỏe, tăng cường chức năng não bộ, điều chỉnh sự trao đổi chất, kích thích làn da và tế bào tóc phát triển, chống viêm và giảm đau thần kinh;

Omega3 (DHA) và Omega6 gọi là "Chất béo thiết yếu", cơ thể người không thể tự tổng hợp được mà phải dựa vào từ nguồn thực phẩm trong khẩu phần ăn hàng ngày mà chỉ có bò Wagyu mới tổng hợp và tích lũy được với lượng lớn omega-3, omega-6 và các acid amin khác với tỷ lệ vượt trội hơn hẳn nhiều lần so với các thịt thông thường khác.

3. Thịt bò Wagyu đối với sức khỏe con người

Theo TS. Tim Crowe, chuyên gia dinh dưỡng, giảng viên Trường Khoa học Thể dục và Dinh dưỡng Đại học Deakin - Melbourne - Australia “Thịt bò Wagyu rất có lợi cho sức khỏe con người” bởi hàm lượng omega 3 và 6 (DHA) trong WAGYU cao hơn so với các loại thịt bò khác và có một loại acid béo là acid Linoleic liên hợp (CLA) mà CLA đã được chứng minh là có đặc tính chống ung thư mạnh mẽ, cũng như là một chất chống viêm.

Đây là một lợi ích tiềm năng cho sức khỏe, giảm bệnh tim,mạch, tiểu đường, hen suyễn, giảm mỡ, giảm cholesterol cơ thể và tăng phản ứng miễn dịch.  CLA ở thịt Bò wagyu cao nhất trên bất kỳ loại thực phẩm nào (nhiều hơn khoảng 30% so với các giống bò khác do nồng độ acid linoleic cao hơn, tương đương phi lê cá hồi Đại Dương).

Không thể nói rằng ăn nhiều CLA trong Wagyu sẽ chữa được bệnh ung thư hoặc tiểu đường hoặc làm bạn giảm cân, tuy nhiên CLA có tiềm năng mạnh mẽ về lợi ích sức khỏe của bạn (con người) được kéo dài về sau (tương lai). 

Sử dụng một lượng thịt bò Wagyu trong mỗi bữa ăn sẽ giúp con người duy trì khối lượng cơ bắp, chống thoái hóa cơ, bắp, giúp cho bạn có được thể hình cường tráng hấp dẫn. Cải thiện thành tích tập luyện thể thao bới hàm lượng Carnosine là một chất quan trọng đối với chức năng của cơ bắp.

Ngăn ngừa thiếu máu bới nguồn cung vi lượng sắt chất lượng, giúp tăng hồng cầu, tăng khả năng vận chuyển oxy của máu. Sự bổ sung này rất cần cho phụ nữ mang thai và vận động viên thể thao và người lao động cơ bắp.

4. Tại sao phải lai và sử dụng thịt bò Wagyu lai?

Bò Wagyu - Kobe thuần chủng không thể có đủ để đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng trên thế giới, ngay cả trên đất nước Nhật Bản, tổ tiên của giống bò này.

Có hai yếu tố cơ bản là việc nhân, nuôi giống bò này rất lâu, giá thành cao (từ 300 đến 1.000 USD/kg) nên người ta phải sử dụng con lai của nó.

Theo Tiến sỹ  Sherry Bunting, bò Wagyu nuôi theo quy trình của bò Wagyu Nhật Bản chất lượng không thua kém là bao (70-80%) so với bản gốc. Trong đó, nếu sử dụng công thức lai giữa bò đực Wagyu và con cái là bò sữa Holsteins (HF) thịt bò thương mại chất lượng cao đặc biệt, được xếp loại Prime trở lên đối với tất cả trong các chương trình lai tạo so với bò khác.

Ở Việt Nam, hiện đã có thịt bò Wagyu nhập khẩu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TP. HCM với giá bán từ 4,5 - 6 triệu đồng/kg.

Riêng thịt bò Wagyu lai trong nước đạt chuẩn duy nhất chỉ có ở 02 nơi là: Đức Trọng, Lâm Đồng giá bán từ 1,5 - 4,5 triệu đồng/kg và ở Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì, Hà Nội giá bán từ 350.000 đồng đến 3,7 triệu đồng/kg với quy trình mổ mát tiêu chuẩn Nhật Bản và nuôi theo chuỗi giá trị tuần hoàn.

Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì, Hà Nội đang bán thịt bò Wagyu giá từ 350.000 đồng đến 3,7 triệu đồng/kg với quy trình mổ mát tiêu chuẩn Nhật Bản. Video: Quang Dũng.

1. Giống bò

Bò được tạo ra từ nền bò mẹ Hostein Frisian (HF) nuôi để khai thác sữa theo tiêu chuẩn VietGAPH, tinh bò đực Wagyu được nhập từ Nhật, Úc với những bò đực có thành tích xuất sắc, cá thể được định danh (gắn số) giúp cho việc truy xuất nguồn gốc trên từng sản phẩm.

2. Nuôi dưỡng

Những con bê con sinh ra trong 10 ngày đầu được nuôi bằng 100% sữa mẹ, nuôi theo cá thể, sau đó nuôi theo khẩu phần sữa bò tươi và thức ăn bổ sung tinh hỗn hợp và cỏ non tự do với chất lượng cao đến 5 tháng tuổi.

Giai đoạn sau cai sữa đến 18 tháng tuổi được nuôi trên chuồng đệm lót sinh học và chăn thả luân phiên trên đồng cỏ chăm sóc theo chuỗi tuần hoàn và được bổ sung thức ăn tại chuồng vào mỗi tối cùng với nguồn nước uống từ lòng đất độ sau trên 100m.

Giai đoạn vỗ béo đến giết mổ được nuôi theo cá thể với chế độ ăn, uống, chăm sóc đặc biệt được kiểm soát nghiêm ngặt theo mùa để tạo lượng mỡ giắt trong mỗi thớ thịt và an toàn cho gia súc. Bò được masage, tắm mát, sử dụng sản phẩm từ nhà máy bia, nghe nhạc mỗi khi thư giãn "nhai trầu" bỏm bẻm.

3. Đảm bảo an toàn sinh học trong quá trình nuôi

Bò mẹ, bê con cho đến trưởng thành được kiểm soát thú y theo quy trình an toàn sinh học từ cơ thể (vắc xin, nội ngoại ký sinh trùng, khử khuẩn...) đến chuồng nuôi, đồng cỏ và thức ăn, nước uống được kiểm soát. 

4. Quá trình giết mổ

Bò được giết mổ "Nhân đạo" theo quy trình thịt mát và công nghệ, trang thiết bị Nhật Bản qua 16 bước:

- Chuẩn bị bò: mạnh khỏe, được nhịn ăn sau 24 giờ, nước uống tự do nhe nhạc Bestoven.

- Vào khu chờ: bò được tắm chải sạch sẽ và làm khô sau một bản nhạc quyên thuộc, hạn chế Strees: thời gian 20-25 phút.

- Vào vị trí gây choáng nhanh bằng súng chuyên dụng thời gian 01 phút

- Treo 01 chân sau sau tạo độ dốc

- Tháo tiết hoàn toàn

- Tháo bỏ đầu, chân và lột gia

- Loại bỏ nội tạng

- Làm khô sơ bộ

- Tách thân thịt làm đôi

- Kiểm tra thân thịt và làm sạch lần 02

- Di chuyển vào phòng mát: nhiệt độ phòng dưới 12oC

- Xẻ thân thịt làm tư

- Lưu thịt ở phòng mát sau 24 giờ và duy trì thân thịt ≤ 70C

- Ủ thịt phòng lạnh nhiệt độ từ 1-2oC thời gian 14-17 ngày

- Pha lóc thao tác ở phòng mát

- Đóng gói phân loại thịt và thương mại.

- Bảo quản thịt mát ở nhiệt độ từ 0-2oC (thời gian 06 tuần)

- Cấp đông: thực hiện ở phòng cấp đông, nhiệt độ phòng cấp đông âm 18oC (công nghệ không đông đá) thời gian bảo quản trên 10 tháng

- Rã đông: hạ nhiệt độ về 2oC trong thời gian 48 giờ đồng hồ

- Đóng gói sau rã đông: thương mại, lưu quầy bảo quản nhiệt độ 0-2oC thời gian tối đa 06 tuần

Phân phối sản phẩm: 364 ngày trong năm tại Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì.

1. Xuất xứ bò Senepol

Bò Senepol có nguồn gốc từ quần đảo Caribbean, Senegal, miền Tây châu Phi (Bos Taurus).

Đây là giống bò hiền lành, có khả năng chịu nhiệt cao, kháng nội ngoại ký sinh trùng và bệnh tật tốt, sinh sản tốt, nuôi con nhanh lớn vì sản lượng sữa cao (xếp loại kiêm dụng thịt - sữa). Giống này nhập vào Mỹ năm 1977.

Tại Việt Nam, năm 2017 giống bò Senepol mới đưa vào danh mục giống được nhập khẩu. Năm 2018, Bộ NN-PTNT cho nhập khẩu 30 bò cái thuần Senepol và giao Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Bà Vì (Viện Chăn nuôi) chăm sóc, lưu giữ.

Đến năm 2021, Bộ NN-PTNT cho Trung tâm Gia súc lớn miền Nam nhập tiếp 40 con, đến nay Việt Nam mới có tổng cộng trên 70 con Senepol thuần.

2. Lịch sử bò Senepol

Khoảng năm 1889, Trang trại của Henry  C. Nelthropp’s Grenard Estates là một trong những nhà chăn nuôi Bò N’Dama lớn nhất với hơn 250 con, ông đã duy trì như những giống nòi thuần.

Con trai của Nelthropp, ông Bromley muốn phát triển một giống bò kết hợp những đặc tính cần thiết cho sản xuất cao cấp trong môi trường nhiệt đới của đảo Virgin.

Việc cố gắng nhập khẩu những gia súc có khả năng sản xuất cao từ các vùng ôn đới của Bromley đã thất bại, gia súc đã suy giảm nhanh chóng vì nhiệt độ cao và những căng thẳng về dinh dưỡng.

Năm 1918, các giống di truyền Red Poll đã được giới thiệu cho Bò N’Dama của Nethdropp để cải thiện khả năng vắt sữa, sinh sản, là cơ sở để bò không có sừng.

Sự pha trộn này của các giống di truyền tỏ ra khá thành công và hình thành nên nền tảng của giống bò Senepol. Khi những ảnh hưởng của Red Poll được thêm vào nhiều hơn, áp lực chọn lọc nghiêm ngặt được áp dụng cho da, lông màu đỏ, vóc dáng tốt và sớm trưởng thành. Đặc biệt, đầu không có sừng, hiền lành, bê ngoan, khả năng chịu nhiệt nhất định.

Trong 57 năm kể từ khi đàn bò của Nelthropp được phân tán đến các nhà chăn nuôi địa phương, sự phát triển của giống bò Senepol đã được tiếp tục bởi bốn đàn nguyên thuỷ.

Từ sự bắt đầu này, đàn bò trên hòn đảo đã duy trì những hồ sơ gen di truyền và phát triển thành giống bò Senepol đã được đăng ký. Trang trại tiến hành những thử nghiệm bắt đầu từ giữa những năm 1970 với việc thành lập BCIA của đảo Virgin.

Năm 1977, một máy bay mang 22 con bò Senepol đến lục địa Mỹ để rồi 29 năm sau, Hiệp hội Chăn nuôi bò Senepol gồm 500 nhà chăn nuôi với trên 60.000 con theo nguồn gen này ra đời.

Ngày nay, giống bò Senepol có thể được tìm thấy đã phát triển mạnh trên 21 tiểu bang của Mỹ và các quốc gia trên toàn thế giới như Úc, Paraguay, Columbia, Argentina, Panama, Canada,  Cộng hoà Dimicana, Ecuador, Nicaragua, Puerto Rico, Venezuela, Mexico, Philippines, Zimbabwe, Brazil .

3. Khả năng lai tạo giống

Hầu hết các giống bò nhiệt đới Bos indicus (bò zebu) có khả năng thích nghi tốt hơn bò Bos taurus ở điều kiện nóng ẩm. Tuy nhiên, bò zebu có thịt không mềm bằng bò Bos taurus.

Trong những năm gần đây, nhu cầu về thịt bò mềm ngày càng tăng và có giá thành cao hơn, do vậy, trong chăn nuôi để nâng cao được giá thành sản phẩm cần lựa chọn và lai tạo các giống bò có chất lượng thịt tốt hơn. Tuy nhiên, các giống bò này cần được thích nghi tốt với điều kiện nhiệt đới như ở Việt Nam.

Trong các giống bò hiện có, Senepol là một trong những lựa chọn ở khu vực nhiệt đới và có chất lượng thịt tốt. Nghiên cứu của DPIF (Department of Primary Industry and Fisheries) năm 2013 cho thấy, thế hệ con lai F1 Senepol x Brahman cho chất lượng thịt mềm hơn.

Nghiên cứu này cũng cho thấy, chất lượng thịt của bò F1 Senepol thực sự tốt hơn Brahman ở ở điều kiện nhiệt đới và là cách tốt nhất để cho các nhà sản xuất thịt bò ở Bắc Úc tăng khả năng tiếp thị.

Các nghiên cứu về khả chịu được khí hậu nóng ẩm ở điều kiện nhiệt đới đã chứng minh thế hệ con lai giữa bò Senepol cho kết quả tốt hơn các giống khác như con lai từ bò Senepol lai tạo với giống Puerto Rican điều kiện nhiệt đới Sanchez.

Vì gen lông mượt (slick) chỉ duy nhất có ở bò Senepol và bò Criollo và gia súc có gen slick được công nhận là có khả năng chịu nhiệt tốt nhất.

Sự khác biệt về di truyền cũng làm cho bò Senepol có khả năng chống sốc nhiệt tốt hơn so với giống Angus và bò Holstein. Đặc biệt, nghiên cứu của Dikmen cho thấy khi lai bò Senepol với bò Holstein thế hệ con lai có khả năng thích nghi tốt với điều kiện nóng, ít nhất là khả năng toát mồ hôi.

Nghiên cứu về giống của Schatz cho thấy, giống lai F1 Senepol với Brahman đã có khả năng sản xuất cao hơn giống bò Brahman thuần hoặc như là khối lượng cai sữa cao hơn, khối lượng lúc động dục lần đầu cao hơn, tỷ lệ thụ thai của bò cái tơ F1 cũng cao hơn so với giống Brahman thuần.

Hơn nữa, nghiên cứu so sánh khả năng tăng trọng trong giai đoạn vỗ béo của bò đực lai F­1 (Senepol x Brahman) và Brahman thuần tại Indonesia cho thấy con lai F1 (Senepol x Brahman) có khả năng tăng trọng cao hơn rõ rệt so với giống Branman thuần. Bên cạnh đó, Holloway cũng thấy rằng, tỷ lệ % nuôi sinh ra và sống sót của bê Brahman cũng thấp hơn so với bê F1 Senepol-Tulisired.

Nghiên cứu về ưu thế lai của bò Senepol với bò Hereford cho thấy, đời con lai có ưu thế lai rõ rệt về khả năng sinh trưởng ở giai đoạn tơ lỡ và giai đoạn vỗ béo. Đặc biệt là sự con lai F1 Senepol có điểm ham muốn cao hơn Brahman khi đến tuổi dậy thì đây là một chỉ tiêu sinh sản khá thú vị của giống bò này.

Hơn nữa, ưu thế lai của bò Senepol còn được chứng minh bởi khả năng kháng lại với các loại ve ở công thức lai bò Senepol x Nelore ở điều kiện nhiệt đới tốt hơn so với sự lai tạo giữa bò Angus và Nelore.

4. Lợi thế của bò Senepol

Trên đồng cỏ: Senepol được đánh giá là loại bò rất tốt cho việc chăn thả, khả năng gặm cỏ tốt, bản tính ôn hoà, gen giống bò hiền lành là những yếu tố cần thiết cho sự thành công của bò chăn thả. Ngoài ra, bò còn có khả năng tự tìm kiếm những khu vực cỏ tốt để ăn.

Một đặc điểm quan trọng là bò Senepol có khả năng chịu được nhiệt độ nên thời gian chăn thả trên đồng cỏ được kéo dài mà không ảnh hưởng làm tăng tới nhiệt độ trực tràng.

Trong chuồng nhốt: Vào đầu những năm 1990, các nhà chăn nuôi Senepol trên khắp đất nước đã tập hợp hàng ngàn con bê Senepol lai tạo đang trong giai đoạn tăng trưởng để nỗ lực thu thập những dữ kiện về bộ xương, tính chất hiền lành và thịt mềm của bò Senepol.

Từ tháng 10/1990 đến tháng 5/1993, Jim Barron’s Spur Headquaters Ranch đã khảo sát với 2.000 con bê Senepol đời F1. Trung bình chung cho tất cả các con bê là 146 ngày cho ăn, tăng trọng trung bình hàng ngày là 3.62 pounds/ngày (1.65kg/ngày) và hệ số chuyển đổi thức ăn khô là 6.74 pounds thức ăn/1 pound tăng trọng (3.07kg thức ăn/0.45kg tăng trọng).

Những con bê Senepol tiếp tục chứng minh khả năng của chúng để thực hiện trong các nơi vỗ béo gia súc và trong chương trình hoàn thiện trang trại.

Trong vỗ béo: Vào đầu những năm 1990, các nhà chăn nuôi Senepol trên khắp đất nước đã tập hợp hàng ngàn con bê Senepol lai tạo đang trong giai đoạn tăng trưởng để nỗ lực thu thập những dữ liệu khả năng sinh sản, tính chất hiền lành và thịt mềm của bò Senepol.

Trong giai đoạn vỗ béo thì hiệu quả thức ăn là quan trong nhất, việc duy trì khả năng tăng trọng và tiết kiệm được sự lãng phí thức ăn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.

Trong nghiên cứu về lượng thức ăn dư thừa trong chăn nuôi bò ở giai đoạn sinh trường, bò Senepol có lượng thức ăn dư thừa thấp nhất (hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất) và có ít mỡ dưới da.

Chất lượng thịt: Việc cải thiện độ mềm của thịt là đặc điểm quan trọng nhất mà người tiêu dùng hướng tới. Thịt của bò Senepol có ưu điểm là mềm tương tự như thịt của các giống bò Bos taurus, đây là một đặc điểm nổi bật mà ngành công nghiệp bò thịt hướng tới. Nghiên cứu của Torres cho thấy, bò Senepol được nuôi dưỡng tốt với khẩu phần đủ protein thì tỷ lệ phần trăm mỡ dắt cao hơn.

Việc sử dụng giống bò lai Senepol nên được triển khai để cải thiệt chất lượng thịt ở vùng nhiệt đới. Với đặc điểm của bò Senepol là khả năng thích nghi tốt với nhiệt độ và độ ẩm cao sẽ cải thiện được các giống bò địa phương sẽ góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thịt tạo ra.

Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của Supulveda đã cho thấy, khả năng di truyền của tính trạng thịt mềm từ bò Senepol dễ dàng chuyển sang các giống khác.

Khả năng chịu nhiệt: Theo Nghiên cứu của Bộ Nông Nghiệp Mỹ, thiết lập so sánh nhiệt độ được duy trì trong giống bò Senepol với các giống bò Brahman, Angus và Hereford trong khi chăn nuôi trong những tháng hè ở Florida nhiệt độ duy trì đối với bò senepol dao động trong khoảng từ 28-40 độ C. Ở điều kiện này nhiệt độ trực tràng của bò Senepol là 38 thấp hơn Brahman (39 độ C) Hereford (39,4 độ C) và Angus (40,22 độ C).

Nghiên cứu này cũng tiết lộ rằng, bê con đời F1 Senefortd (Bao gồm cả bê con Hereford sinh ra từ bò Senepol và bê Senepol sinh ra từ bò Hereford) duy trì nhiệt độ trực tràng hầu như giống hệt Senepol thuần chủng, qua đó cho thấy khả năng này được di truyền qua các yếu tố của con lai.

Nghiên cứu của Olson cho thấy, bò Senepol là động vật có lông rất ngắn và mịn. Bò Senepol với lông ngắn và mịn có khả năng duy trì nhiệt độ cơ thể thấp. Sanchez cũng khuyến cáo rằng nên đưa kiểu hình lông mượt của giống bò Senepol vào các như một phương tiện để giảm tác động tiêu cực của stress nhiệt.

Khả năng kháng bệnh và côn trùng: Nghiên cứu của Bộ Nông Nghiệp Mỹ cho thấy, bò Senepol có khả năng miễn dịch tốt hơn khi so sánh với các giống bò khác.

Trong một nghiên cứu đếm bọ ve của Úc cho thấy bò Senepol ít bọ ve hơn bất kì giống bò nào, kể cả Brahman và Santa Gertrudis. Mắt đỏ và ung thư mắt hầu như không bao giờ được tìm thấy trên bò Senepol.

Một nghiên cứu đếm bọ của một trường đại học North Carolina State đã cho thấy, trong một đàn hỗn hợp bò Angus và bò Senepol lai Angus bò Angus có 82% số ruồi và bò Senepol có 18%. Nghiên cứu này cũng cho thấy những con bò Senepol có mức độ thoải mái cao hơn và bầu vú sạch sẽ cho bê con bú.

Đây là sự thừa hưởng tuyệt vời của bò N’Dama tác động lên Senepol và sự đóng góp của chúng trong khả năng kháng bệnh và côn trùng. Nó cũng được hỗ trợ bởi các thế hệ chọn lọc tự nhiên áp dụng cho các giống bò Senepol.

Sinh bê dễ và bê con khoẻ mạnh: Một lợi thế sẵn có rất lớn của bò Senepol là khả năng sống mạnh mẽ của bê con. Các nhà chăn nuôi khắp nơi rất tự hào về khả năng sinh tồn của bê con Senepol vì chúng nhanh chóng đứng lên và bú sau khi được sinh ra.

Trọng lượng của những con bê mới sinh năm 2003 cho thấy, bê đực là 35,5kg, bê cái là 33,64kg. Với hình dáng dài và mỏng, bò Senepol được xếp hàng đầu về việc dễ sinh con.

Năng suất của bò mẹ: Bò Senepol là loại bò kiêm dụng theo hướng thịt sữa, có kích thước vừa phải và khả năng tìm kiếm thức ăn trên đồng cỏ rất tốt. Báo cáo của Olson cho rằng, đàn bò Senepol có tuổi dậy thì sớm hơn bò thuần Bos indicus.

Mặt khác, những con bò trưởng thành có trọng lượng trung bình từ 1.000 đến 1.200 pounds (455kg - 545kg), sản lượng sữa giao động từ 3.000 đến 4.200kg/270-280 ngày cho sữa.

Nuôi con tốt nên khi bê cai sữa có thể đạt đến 50% trọng lượng cơ thể của bò trưởng thành hoặc cao hơn.

Lưu ý, khả năng động dục trở lại trong thời gian đang nuôi con của bò Senepol nên duy trì khoảng cách sinh bê hiệu quả khi khoảng cách lứa đẻ ngắn từ 12 đến 14 tháng.

Nội dung: Nguyên Huân

Ảnh: Tùng Đinh

 

Báo Nông nghiệp


Tìm kiếm tài liệu chăn nuôi