Lợn kháng PRRS

03/06/2024

Những đột phá trong chỉnh sửa gen cho thấy động vật có khả năng kháng PRRS

11 tháng 3 năm 2024

 Chris Wright

 Bắc Mỹ

Hội chứng hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS) là một trong những bệnh dai dẳng và gây ảnh hưởng kinh tế nhất ở lợn. Lucina Galina, Công ty Cải thiện Lợn , cho biết ba mươi năm sau khi phát hiện ra virus PRRS (PRRSV), ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn trong việc kiểm soát nó bất chấp những nỗ lực đáng kể.

Những đột phá gần đây trong việc chỉnh sửa gen đã cho thấy động vật có khả năng chống lại nhiễm trùng và nhờ đó tạo ra khả năng kiểm soát dịch bệnh. Bằng cách sử dụng chỉnh sửa gen bằng CRISPR-cas9, một phần mã hóa DNA cho protein có thể bị xóa. Galina cho biết, không giống như sinh vật biến đổi gen, trong trường hợp này, DNA từ sinh vật khác không được đưa vào để sửa đổi mã di truyền.

Bằng chứng ủng hộ rằng CD163 là một thụ thể bạch cầu đơn nhân và đại thực bào không thể thiếu, và đặc biệt, miền thụ thể cysteine Rich 5 (SRCR5) của nó rất quan trọng đối với nhiễm PRRSV. 1 Chức năng chính của CD163 là thanh thải huyết sắc tố tự do và tham gia vào các quá trình viêm thông qua một miền khác với SRCR5, và không có vai trò cụ thể nào liên quan đến SRCR5 ngoài nhiễm PRRSV. 2 Quần thể sáng lập mang cặp cơ sở SRCR5 414 bị mất được sử dụng để xây dựng quần thể nhân giống thương mại. 3

Vì sự di truyền của gen đã chỉnh sửa CD163 là gen lặn nên những con lợn đồng hợp tử phải được tạo ra từ những con mẹ và con đực đồng hợp tử để mang các gen kháng thuốc.

Galina trích dẫn nghiên cứu trong đó lợn đồng hợp tử, dị hợp tử và lợn vô tính được tiêm bốn chủng PRRSV phân lập, bao gồm loại I (SD13-15, SD01-08) và II (144 L1C, NVSL97 L8). Các nghiên cứu được thực hiện tại các cơ sở An toàn sinh học cấp 2 (BSL-2) tại Dịch vụ Thú y Trung Tây ở Oakland, Nebraska, Hoa Kỳ.

Các bác sĩ thú y và người chăm sóc giám sát việc tiêm chủng và lấy mẫu đã không biết về hợp tử của lợn. Lợn cai sữa được đưa đến cơ sở BSL-2, thích nghi trong một tuần và được tiêm 3 mL PRRSV (± 10 4 TCID50 qua đường mũi). Huyết thanh được lấy trước và vào lúc 3, 7, 10, 14 và 21 ngày sau khi tiêm chủng. Các đánh giá lâm sàng đã được thu thập, bao gồm nhiệt độ hàng ngày, thái độ và điểm hô hấp (0-3). Các xét nghiệm PCR và ELISA PRRSV đã được tiến hành tại ISU VDL và bác sĩ chẩn đoán đã không nhận dạng được lợn.

Nhìn chung, các chủng phân lập loại II có khả năng gây bệnh cao hơn loại I. Không có con lợn nào có biểu hiện hành vi hoặc điểm hô hấp cao hơn 1. Tuy nhiên, có một số khác biệt trong các đánh giá lâm sàng khi so sánh lợn đồng hợp tử với lợn dị hợp tử và lợn vô tính, điều này thể hiện rõ khi gây bệnh. Cô cho biết các chủng đã được đánh giá.

Ví dụ, lợn dị hợp tử và lợn không được tiêm 144 1C có nhiệt độ trung bình và điểm lâm sàng cao hơn so với lợn đồng hợp tử. Những con lợn đồng hợp tử luôn âm tính với PCR trong suốt thời gian chảy máu, trong khi những con lợn dị hợp tử và những con lợn không có giá trị đều dương tính. Những con lợn đồng hợp tử không có phản ứng miễn dịch được ELISA phát hiện. Ngược lại, lợn dị hợp tử và lợn không có gen chuyển đổi huyết thanh, Galina lưu ý.

Các nghiên cứu bổ sung sử dụng các chủng phân lập hàng đầu từ các dòng thống trị đương thời của Hoa Kỳ là L1H, L1A và L1E đã cho thấy kết quả nhất quán. Bà kết luận rằng những kết quả này cho thấy rằng chỉnh sửa gen có thể mang lại cơ hội chưa từng có để kiểm soát loại virus đầy thách thức này, vốn đã gây khó khăn cho ngành chăn nuôi lợn toàn cầu trong nhiều thập kỷ.

1 Whitworth và cộng sự, 2016, Công nghệ sinh học tự nhiên.

2 Burkard và cộng sự, 2017 , Mầm bệnh PLOS.

3 Cigan và cộng sự, Khoa học sinh học và nông nghiệp CABI, 2022.

Võ Văn Sự dịch từ Chris Wright  North America. 11 March 2024, The PRRS-resistant pig.

https://www.thepigsite.com/articles/the-prrs-resistant-pig


Tìm kiếm tài liệu chăn nuôi